Cứ để cho Chí Phèo ngồi đấy và đang ngó mình chằm chằm bằng cái mặt đầy ngây độn, Nam Cao cầm cây bút lên tiếp tục viết. Ông đang viết về chuyến đi của ông trở về làng, chuyến đi thâm nhập vào vùng sau lưng địch. Ông muốn hô hoán lên trước cả nước về cái âm mưu giành dân, bắt lính vô cùng thâm độc của địch. Một bộ phận những con người Việt Nam đang bị giặc Pháp đem biến thành những cái bia đỡ đạn và đang bị tha hoá, mù quáng, cầm súng giết hại người Việt Nam thay chúng. Ông viết tỉ mỉ về âm mưu của quân đội Pháp tại sao chúng đang ra sức đánh chiếm, bình định vùng đồng bằng sông Hồng, cái kho người kho của. Bằng ngòi bút đầy nhiệt tình xưa nay chưa hề có, ông ra sức cổ vũ những đơn vị bộ đội và du kích đầy gan dạ, dũng cảm, quyết tử, đang đánh địch, giữ từng người dân, từng nóc nhà, từng mảnh vườn.
Những trang viết của ông như tiếng kêu cứu của chính cái làng quê Đại Hoàng của ông. Những xóm làng và cánh đồng rung lên trong tiếng xích xe tăng, ngập chìm trong khói lửa.
Nam Cao viết xong một trang ngẩng lên thấy Chí Phèo vừa cắp súng vào nách lừ đừ đứng dậy. Hắn xô ông ngã lăn quay ra khi ông giơ tay níu hắn lại, định giữ hắn lại với mình. Chẳng nói chẳng rằng hắn bước ra ngoài cánh đồng. Hắn cắp khẩu tiểu liên tuyn vào bên hông, đôi giày trận đối với hắn vẫn chưa quen chân, bước từng bước chuệnh choạng trên mảnh đất của đám ruộng cày mới vỡ. Hắn đi xăm xăm về phía làng Vũ Đại ở trước mặt.
Ngôi làng quê cổ kính từ chỗ Nam Cao ngồi nhìn sang thấy dài xanh một vệt. Một đám khói đen đen vàng vàng nom như một tấm chăn dạ lính Tây lấm bùn vấy máu vắt ngang phía trên đầu ngôi làng. Nó chính là làng Đại Hoàng của Nam Cao. “Vũ Đại” gắn liền với cái tên “Chí Phèo” chỉ là một cái làng do Nam Cao bịa ra. Chí Phèo đi thẳng vào làng, y như cái lần hắn ở trên tỉnh về với bộ cánh tươm tất và cái đầu ngẩng cao, và cả một lòng đầy giận dữ. Nhưng lần trở về này, Chí Phèo cao ngạo và nguy hiểm hơn nhiều, hắn quyết trả thù cho cả cái làng Vũ Đại.
Làng Vũ Đại đang cháy. Chí Phèo nhìn lửa cháy nhà, hắn thích lắm ! Đi qua mỗi cái cổng ngõ bây giờ mở toang và vắng tanh, hắn không thèm chửi như ngày trước mà lấy làm khoái chí chĩa ngang nòng khẩu tuyn nã đạn vào một điểm xạ.
“Pằng ! Pằng ! Pằng ! Bây giờ thì y chửi đời bằng khẩu súng !” Nam Cao viết về cuộc trở về của nhân vật của mình đến đấy thì ông chợt ngồi lặng đi. Rồi ông cầm bút xoá đi tất cả những điều sự thật vừa viết ra.
Ông quyết định viết lại. Lòng ông chợt trở nên rưng rưng. Những câu liêm, những con dao quắm phát bờ, những thanh đại đao mới rèn ở lò rèn, tất cả những thứ khí giới cùng giơ lên tua tủa giữa những nếp vải đỏ mới nguyên, và những ngôi sao vàng cũng mới nguyên. Cả một rừng cờ. Cả một rừng cờ đỏ sao vàng bay phấp phới kín cả làng Vũ Đại. Mắt Nam Cao nhoà đi vì nước mắt khi ông nhớ lại cái ngày cướp chính quyền tháng Tám ở làng Vũ Đại. Nam Cao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt người làng mình. Đã từng bỏ làng đi ra tỉnh kiếm miếng cơm và cũng mong ngóc đầu dậy nữa, nhưng Nam Cao vẫn yêu cái làng mình nhất. Suốt đời ông yêu những con người hiền lành, chất phác và đói khổ ở đấy, mặc dầu chưa bao giờ ông dùng ngòi bút tô vẽ họ. Ông yêu cả những con người chỉ đáng tội nghiệp như Chí Phèo. Nhưng cái làng của ông, cái làng bị đè nén, bóc lột bởi hào lí, địa chủ đến kiệt quệ ấy đã vùng lên ! Những cái mặt héo hắt, xì xị đã bắt đầu nhoẻn cười. Những cái cười đến là hom hem nhưng người ta đã cười, người ta lại còn hát nữa. Hát như quát to, chẳng du dương một tí nào nhưng người ta đã hát. Và người ta đùm bọc, thương yêu nhau hơn.
Làng ông đã biến đổi, tại sao Chí Phèo không thể biến đổi được nhỉ ! Tại sao Chí Phèo không đi với cách mạng, không trở thành một con người cách mạng được nhỉ ? Hồi mình làm chủ tịch, mình đã mắc một khuyết điểm lớn là bỏ quên hắn, bận bao nhiêu việc đến tối mắt thành ra quên hắn. Mà hình như trong đoàn người rùng rùng kéo đi giữa biển cờ và giáo mác, có cả hắn đi trong hàng ngũ hay là lúc ấy hắn đang say cho nên rúc vào đâu ?
Nam Cao muốn cách mạng phải là một cái gì thật vô cùng đẹp đẽ, nhân bản. Ông muốn rằng cách mạng phải có một sức mạnh lay trời chuyển đất, làm thay đổi cả những tính cách con người như Chí Phèo. Nam Cao trở nên một con người khác hẳn với khi đang sống, một con người đa cảm, dễ xúc động, dễ mủi lòng, y hệt như Nguyên Hồng. Sau nhiều năm nung nấu đau đớn với kiếp người trước Cách mạng cho nên lòng Nam Cao bây giờ mang nặng bao nhiêu điều nguyện cầu, mong mỏi ở cuộc đời trần gian, cho nên ông hạ bút viết rằng Chí Phèo đã được cách mạng chăm sóc, giác ngộ, làm đổi đời, đã trở thành một con người tử tế, lương thiện. Chí Phèo vào dân quân. Chí Phèo gia nhập nông hội. Chí Phèo đánh giặc giữ làng.
Nhưng vừa viết ông vừa ngờ ngợ. Theo thói quen ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt của ông, ông đã có kinh nghiệm, một khi trong bụng đã ngờ ngợ thì không nên viết tiếp. Những dòng chữ đơn thuần xuất phát từ lòng mong muốn tốt đẹp mà ông vừa viết ra khiến cho ông ngờ ngợ và ngờ vực…
Ông đặt bút xuống, xo vai lại như đang chịu một cơn rét thấu ruột, thu hai bàn tay vào lòng, khép mắt ngồi yên lặng, thắt lòng lại bởi lo lắng lẫn đau đớn, ông lắng tai nghe tiếng súng vọng sang từ bờ bên làng mình.
2. Người ta nói nhiều đến cái mà chúng tôi tạm gọi là cấu trúc đường tròn của Chí Phèo. Về nội dung, nó thể hiện con đường bế tắc của nhân vật. Song về nghệ thuật lối cấu trúc này mang dấu ấn của thơ, chẳng những nó gợi lại một thể thơ nào đó, một điệp khúc – vốn là lối tổ chức câu cú quen thuộc của thơ : truyện ngắn Chí Phèo là một thứ “thủ vĩ ngâm” về cái lò gạch. Kết cấu đường tròn được hỗ trợ bằng các mô típ : gương mặt đầy sẹo, cái lò gạch bỏ hoang ít nhất đã có hai ám ảnh tạo nên mô típ về con người thừa, con người ở ngoài lề cộng đồng. Chính việc sử dụng mô típ cũng góp phần gợi nên cảm giác quay vòng, nó thuộc về bản chất của thơ.
Trong Chí Phèo, chất thơ còn được điểm xuyết bằng những cảnh tượng và bức tranh phong tục vốn là những “mã” của sinh hoạt dân gian, truyền thống ; cảnh kín nước ven sông, chợ búa, nồi cháo hành chữa bệnh ; chất ước lệ (ví dụ đoạn miêu tả nhan sắc thị Nở), những thành ngữ (thằng có tóc, thằng trọc đầu…) nhìn chung đầy rẫy trong truyện. Và cuối cùng phải kể đến một đoạn thơ trữ tình ngoại đề có thể sánh ngang với những đoạn cùng thuộc loại ngôn từ ấy hoặc một loại khác nữa – các đoạn độc thoại – nổi tiếng trong truyện và tiểu thuyết xưa nay. Tôi muốn dẫn đoạn Nam Cao nói hộ Chí Phèo : “Hắn cảm thấy hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời. Đối với những con người như hắn, những trận ốm như thế này là trận gió đầu thu báo hiệu mùa đông sẽ tới”… ở đây Chí Phèo với Nam Cao là một, sự đồng cảm tìm thấy hình thức bộc lộ thích hợp nhất : trữ tình.
3. Tiếp cận tác phẩm từ một góc độ khác, nhà thơ – nhà giáo Cái Văn Thái viết Thi sĩ Chí Phèo :
Thị Nở xấu ma chê quỷ hờn
Thành người đẹp ngủ trong vườn chuối.
Dưới trăng ngời, Chí Phèo nát rượu
Hoá chàng hoàng tử gặp giai nhân.
Gã lưu manh chuyên rạch mặt la làng
Hồi hộp, ngỡ ngàng lạc vào tình ái.
Sau một đêm thiêng liêng huyền diệu
Sáng ra cuộc đời thêm một nhà thơ.
Ai dễ gì lắng trọn tiếng ban mai
Tinh khiết giữa đất trời tở mở
Tiếng thuyền chài, tiếng đám người vãn chợ
Tiếng chim ca ríu rít, trong veo…
Thế mà, bỗng nhiên, sáng mai ấy, Chí Phèo
Tai lọc hết bao âm thanh trời đất
Trái tim hát ca với không gian, tạo vật
Hồn lâng lâng những cảm xúc thanh cao.
Tiếng thơ Chí Phèo vút lên giữa ban mai
Rưng rưng bên bát cháo hành thị Nở.
Cả vũ trụ xôn xao, bỡ ngỡ
Trước tình yêu mầu nhiệm của con người.
Một người đàn bà vừa xấu vừa hâm
Trong ái ân, hoá nàng-tiên-thị-Nở.
Một gã lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ
Giữa yêu thương, thành thi-sĩ-Chí-Phèo.
1991