SốngĐẹp Team - Cộng Đồng Sống Đẹp
Vu Lan- ngày lễ của tình người
Vu Lan là ngày thể hiện tình người thắm thiết trong cuộc sống nhân sinh, mang tính văn hoá đạo đức tâm linh, văn hoá đạo đức tình người. Ngày lễ này đã ăn sâu trong lòng mỗi người dân Việt, cũng như sự ảnh hưởng của nó đã lan toả khắp cộng đồng nhân loại, thắm đượm tinh thần từ bi của Đạo Phật.
Ngày Vu Lan không chỉ dành riêng cho người phật tử hay trong Đạo Phật, mà còn là mùa lễ hội văn hoá của tình người, mở rộng tâm hồn để kết nối nhịp cầu yêu thương với mọi người và tất cả chúng sanh trong cùng khắp pháp giới. Tinh thần ảnh hưởng của ngày lễ hội có tác dụng rất mạnh mẽ trong xã hội, mang tính nhân văn cao cả, suy tiến mọi ân tình, ân nghĩa trong cuộc sống, khuyến khích mọi người sống có luân thường đạo lý.
Rằm tháng Bảy là ngày xá tội vong nhân, người dân thường làm lễ cúng chúng sinh. Cúng Rằm tháng Bảy mỗi nơi một khác song giống nhau ở tấm lòng thành và tâm hướng thiện. Cùng với các hoạt động thể hiện truyền thống văn hóa tốt đẹp của người dân Việt Nam, Rằm tháng Bảy âm lịch hàng năm, người dân lại tổ chức lễ Vu Lan báo hiếu.
Hiếu thuận với cha mẹ không phải là việc ngày một, ngày hai, nhưng Lễ Vu Lan vẫn luôn là dịp để bao nỗi niềm được bộc bạch, sẻ chia. Tấm lòng của bao người con, dù đang được ở bên cha mẹ hay phải xa quê, được tri ân đấng sinh thành, dưỡng dục của mình một cách thành kính nhất.
Định nghĩa từ Vu-lan: Cho đến bây giờ các học giả đạo Phật đều thỏa thuận là chữ “vu-lan-bồn”, phiên âm từ chữ “ura-bon-e”, xuất xứ từ tiếng Phạn Sanskrit “ullambana”, một hình thức đọc gọn chữ “avalambana”, có nghĩa là treo ngược. Tiếng Trung Hoa dịch nghĩa là “đảo huyền”, treo ngược chân lên trời, đầu xuống đất, là một hình phạt vô cùng tàn khốc áp dụng cho các tội đồ. Người Trung Hoa phiên âm từ “ura-bon-e” thành từ “vu-lan-bồn”, nói tắt là “vu-lan”. Lễ Vu Lan trở thành một chức năng của tập tục thờ cúng tổ tiên, rất quan trọng trong nền văn minh của Trung Hoa và các nước lân cận chịu ảnh hưởng văn minh Trung Hoa.
Học giả người Nhật Bunyu Matsuda sưu khảo trong đại tập Huyền Anh Diễn Nghĩa là một bộ kinh Phật gồm 25 tập, 449 quyển của đại sư Huyền Anh sống dưới đời Tùy, phiên âm và diễn dịch tất cả từ ngữ trong kinh điển nhà Phật từ tiếng Ấn Độ sang tiếng Trung Hoa. Trong tập số 13, chữ vu lan bồn được phiên âm và giải thích cặn kẽ. Đại sư Huyền Anh viết: từ ura-bon mà ta dịch là vu lan bồn là một hình thức phiên âm sai lạc; phải viết đúng là ullambana mới có nghĩa là “đảo huyền”.
Lại nữa, vào đời Thịnh Đường, ở phủ Khai Phong, đại sư Tông Mật lại đưa ra một nhận định khác, khi ông viết phần Luận của cuốn Vu Lan Bồn Kinh. Ông viết: ullam không hẳn là tiếng Phạn, từ này gốc ở Trung bộ Á châu, nơi đạo Phật theo con đường Lụa hoằng dương vào Trung Hoa. Chữ ullam có thể hiểu và dịch là đảo huyền, nhưng chữ bana phiên dịch ra Hán ngữ là bồn, phải hiểu là một con thuyền hay một tấm ván, tấm bè làm khay, một cái chậu đựng thức ăn. Vậy toàn bộ chữ ullambana dịch sang Hán ngữ, phải được hiểu là “cứu giúp một con thuyền bị lật ngược, hay là quay lại cho ngay một tấm bè hay một cái khay, một cái chậu, bị lật ngược”. Đại sư Tông Mật giải thích là ngay trong bản kinh Ullamba Sutra Vu-lan-bồn Kinh cũng có đoạn nói đến cái khay. Đức Phật dạy muốn báo hiếu chuộc tội cho cha mẹ, phải thành tâm “dâng đầy khay thức uống và hương hoa phẩm vật” cho các bậc tôn trưởng cầu xin họ giúp lời cầu nguyện.
Ý kiến phân giải của đại sư Tông Mật được đại sư Đạo Thế là người trước tác bộ Pháp Uyển Châu Lâm yểm trợ. Tác phẩm này dày 100 cuốn, là một công trình hệ thống hóa hai mục Kinh và Luận trong Tam tạng kinh điển nhà Phật. Trong phần trích dịch Kinh Ullambana Sutra cũng có đoạn nói tới lời đức Phật dạy phải dâng “đầy khay” hương hoa quả phẩm cho tăng chúng để xin giúp lời cầu nguyện cho tổ tiên được siêu thoát.
Học giả Bunyu Matsuda còn dẫn thêm là tài liệu trong bốn cuốn kinh khác, Vu-lan-bồn Kinh sơ, Vu-lan-bồn Kinh sơ hiếu hành châm, Thích Thị yếu lãm và Fan-i-ming i-chi ? để yểm trợ lời giải thích của Tông Mật. Công trình nghiên cứu bác học của thế hệ mới, đặc biệt là trường Nhật Bản sung túc phương tiện trí óc và nhu cụ làm cho ta phấn khởi về tương lai của một nền Phật học hàn lâm. Tuy nhiên nếu đọc thật kỹ tài liệu trình bày hai ý kiến của hai vị đại sư Huyền Anh và Tông Mật cùng giải thích từ ngữ “vu lan bồn”, ta có thể kết luận không sợ sai lạc nhiều là hai ý kiến có vẻ không tương phản, mà còn hỗ trợ nhau. Người học Phật bước đầu nghiêng về phía giản tiện, hãy dùng chữ “Vu Lan” để gọi ngày lễ “Rằm Tháng Bảy”.
Cầu nối giữa quá khứ và hiện tại
netlife.vn/images/2013/08/05104021-1.jpg[/anh">
Từ cổ chí kim, Đông phương hay Tây phương đều suy tiến đạo hiếu. Tinh thần của ngày lễ Vu Lan được thể hiện trên ba phương diện: lòng biết ơn công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, phương pháp báo đáp công ơn đó và nhân quả tất yếu của đạo hiếu.
Chúng ta nên biết, hiếu kính phải đi đôi với hiếu dưỡng. Lòng biết ơn cha mẹ phải được thể hiện bằng những hành động việc làm cụ thể, phụng dưỡng cha mẹ về vật chất lẫn tinh thần, có như vậy mới đầy đủ ý nghĩa tri ân và báo ân. Từ những ý nghĩ và hành động báo hiếu đó sẽ đưa đến kết quả tốt đẹp cho những người con hiếu thảo.
Vì thế, ngày Vu Lan cũng là dịp để suy tiến đạo lý nhân quả, khuyên mọi người sống hay, sống đẹp, sống có ý nghĩa. Sống là một nghê thuật. Chúng ta phải sống hiếu thảo với cha mẹ, hiếu kính với người trên, hiếu hoà với kẻ dưới, hiếu thuận với mọi người và hiếu sinh với vạn loại. Như vậy, ngày lễ hội Vu Lan mang nhiều ý nghĩa giá trị luân lý đạo đức, đề cao mọi ân tình ân nghĩa trong cuộc sống nhân sinh và vạn loại.
Vu Lan là nhịp cầu yêu thương, được truyền thông từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Chúng ta không chỉ nhớ ơn những người đang cưu mang mình mà còn tri niệm công ơn của những người đã khuất như cửu huyền thất tổ, đa sanh phụ mẫu, thất thế phụ mẫu, hay những chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, những người đã hy sinh xương máu cho nền độc lập tự do của tổ quốc, để hôm nay chúng ta được sống trong cảnh thái bình, no ấm. Nhiều đàn tràng chẩn tế, cầu siêu bạt độ, chẩn thí âm linh… được các cấp Giáo hội và chính quyền tổ chức tại các tỉnh thành cũng nhằm mục đích thể hiện tinh thần đền ơn đáp nghĩa cao đẹp này.
Tinh thần của mùa lễ hội Vu Lan giáo dục lòng nhân ái đối với kẻ còn người mất, khơi mở tấm lòng độ lượng bao dung trong mối quan hệ tương duyên giữa mình và vạn loại. Tình yêu thương đất nước, giống nòi, đạo pháp, dân tộc, tinh thần tôn sư trọng đạo, yêu thương cha mẹ, mọi người, mọi loài… được suy tiến trong mọi khía cạnh đạo đức của xã hội vào dịp Đại lễ Vu Lan. Đây cũng là dịp thể hiện tinh thần cứu khổ độ sanh, mang thông điệp từ bi của Đạo Phật vào đời, chuyển hoá khổ đau, kết nối nhịp cầu yêu thương, xây dựng xã hội ngày thêm tươi đẹp, bình an, phúc lạc.
Mỗi năm đến mùa Vu Lan, trong lòng chúng ta lại rộn lên một niềm hiếu hạnh, nhớ thương cha mẹ nhiều hơn. Đây là dịp làm ấm lại ân tình ân nghĩa sâu đậm của cha mẹ, công ơn sanh thành dưỡng dục nặng tợ cù lao, để rồi trong mỗi thời khắc của cuộc sống, chúng ta không bao giờ quên ơn cha mẹ dù còn sống hay đã khuất.
Không phải đợi đến Rằm Tháng Bảy chúng ta mới cảm thấy thương nhớ cha mẹ, mà phải tâm niệm rằng ngày nào, giờ nào, phút nào, tình yêu thương cha mẹ vẫn luôn chứa chan trong lòng mỗi người con hiếu hạnh.
“Nghĩ về mẹ trời luôn tươi sắc nắng,
Hoa trong vườn không gió cũng xôn xao”.
Bên cạnh những lời dạy đầy minh triết của Đức Phật nhằm chuyển hoá thân tâm, đạt đến mục tiêu tối thượng là giác ngộ giải thoát, thì tinh thần của ngày lễ Vu Lan cũng dần dần trở thành ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. Dầu có bề bộn công việc gì, đến ngày này chúng ta đều về chùa, dự vào pháp phần của Phật, nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, cách báo hiếu, đền ơn đáp nghĩa, chúng ta mới thấy hết ý nghĩa trong đời sống đạo đức tâm linh. Mỗi chúng ta đều mang trong mình dòng máu của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. “Mộc bổn thuỷ nguyên”, ai ai cũng có nguồn cội gốc gác của mình.
“Cây có cội mới trổ cành xanh lá,
Nước có nguồn mới toả khắp rạch sông”.
Vu Lan được xem là “ngày về nguồn”, là dịp để truy niệm nguồn gốc hiện hữu của mình trên thế gian, và những ân tình đã cưu mang chúng ta tồn tại, phát triển trong cuộc đời này. Sự sống của chúng ta được tiếp diễn bằng những mối tương duyên, tương quan của mọi người xung quanh, thân hoặc sơ, trực tiếp hay gián tiếp đều ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chúng ta. Không một ai có thể tự tách rời ra mà tồn tại được. Đây là tinh thần nhân văn cao cả thể hiện trong ý nghĩa về lý nhân duyên sinh, trùng trùng duyên khởi. Nếu mọi người đều hiểu được đạo lý này, mình vì mọi người, mọi người vì mình thì xã hội sẽ tươi đẹp, thấm đượm tinh thần từ bi, vô ngã vị tha của Đạo Phật.
Tất cả chúng ta có mặt trên cõi đời này đều do công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Từ thuở bé, cha mẹ đã lo cho ta từng cái ăn, cái mặc. Đến khi lớn lên, lại lo cho chúng ta đến trường trau dồi kiến thức, mai sau có công danh sự nghiệp cho mình tiến thân. Không những thế, cha mẹ sợ chúng ta hư hỏng nên hướng vào môi trường đạo đức tâm linh, đưa đến chùa quy y Tam Bảo, biết cách ăn ở hiền thiện, để từ đó chúng ta làm hành trang bước vào đời một cách tự tin và vững chãi. Vì vậy, công ơn cha mẹ thật vô bờ bến, mà bổn phận mỗi người con phải tự mình ghi khắc trong tim. Nếu chúng ta không thương cha mẹ một cách chân tình thì đối với những ân tình ân nghĩa khác trong xã hội, chúng ta cũng không thể báo đáp trọn vẹn. Giả chăng nếu có, cũng chỉ là một hình thức vụ lợi để mưu cầu cho riêng mình.
Có thể nói, hiếu đạo là nền tảng đạo đức của xã hội loài người, là nền móng căn bản hướng đến lầu cao trí tuệ, là tiêu chí căn bản của người tu. Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật, Đạo hiếu tức là Đạo Phật. Là người phật tử đến chùa tụng kinh, làm mọi việc thiện lành, lại sống bất hiếu, đối xử tệ bạc với cha mẹ thì không xứng đáng là người đệ tử Phật. Trong kinh, Đức Phật dạy: “Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ tức là thờ Phật”. Đức Phật đã nâng địa vị của cha mẹ lên ngang tầm với Ngài, xem cha mẹ tại tiền như Phật tại thế mà hết lòng phụng thờ, nuôi dưỡng cho trọn đạo làm con. Như thế, chúng ta có thể hất hủi, xem thường cha mẹ mình chăng? Thơ ca dân gian cũng đã truyền tụng:
Bất hạnh thay cho những ai không còn cha mẹ hiện hữu trên đời để vỗ về sưởi ấm con tim, không còn dịp để phụng dưỡng, đền đáp thâm ân cao vời của cha mẹ, thì đến ngày Vu Lan nên một lòng chí thành tưởng nhớ về hai đấng sanh thành với niềm tôn kính nhất, phát tâm làm mọi điều thiện lành, sống tốt đời đẹp đạo, hồi hướng công đức cho cha mẹ sớm siêu sanh về cõi giới an lành. Đó cũng là cách báo đáp công ơn cha mẹ khi người đã khuất.
“Nếu mình hiếu kính mẹ cha,
Mai sau con hiếu với ta khác gì.
Nếu mình ăn ở vô nghì,
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công”.
Ngày nay, bên cạnh việc cúng dường, tạo phúc trong ngày lễ Vu lan, tín đồ Phật tử còn tổ chức các sinh hoạt tôn giáo, văn hóa, văn nghệ mang đậm nét nhân văn, thu hút được sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân.
Chính vì vậy mà ngày Vu lan đã được nâng tầm trở thành một ngày lễ hội, không chỉ với người Phật tử, mà cả những người không phải là Phật tử cũng hưởng ứng tham gia. Cũng chính vì những sinh hoạt đi kèm này mà lễ hội Vu lan ở mỗi quốc gia đều có nét đặc trưng riêng, điển hình như lễ hội Vu lan ở Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Việt Nam…
Lễ Vu Lan của một số nước trên thế giới
Lễ Vu Lan ở Trung Hoa.
Phật giáo Đại thừa ở Trung Hoa bắt đầu thiết lễ Vu Lan dưới thời Nam Bắc triều vào thế kỷ thứ Sáu. Tài liệu cũ nhất tìm thấy trong Phật Tổ thống chí ghi là lễ được thiết vào ngày Rằm Tháng Bảy năm 538 TL. Vua Vũ đế nhà Lương đến lễ Phật tại Đông Đài Tự và dâng lễ Vu Lan. Nhưng lễ Vu Lan ngày đó chỉ dành cho vua chúa và qúy tộc thiết lễ trong các ngôi chùa lớn, chưa phải là một dịp hội hè của dân gian. Phải chờ đến hai trăm năm sau, dưới triều Đường Thái Tôn mới thấy trong Thích Thị ký cổ lược ghi rõ ngày lễ Vu Lan, tháng Bảy năm 766 TL, được thiết trong triều có lễ rước Kiệu Phật vào cung đình, và sau đó đem trưng bày Xá lợi tại Quảng An Môn cho dân chúng chiêm ngưỡng. Từ ngày đó lễ Vu Lan mới thành ra một ngày lễ cho đại chúng tham gia. Đồng thời, ý nghĩa của ngày Vu Lan cũng thay đổi.
Khoảng giữa thế kỷ thứ Tám, vào đời Đường, có một vị pháp sư Ấn Độ tên là Amoghavajra, tinh thông giáo lý nhà Phật, muốn đạo Phật tập quán nhiều hơn vào truyền thống xã hội Trung Hoa tôn trọng việc thờ cúng tổ tiên, nên thay đổi ý nghĩa của ngày Vu Lan, làm thành ngày lễ hướng về tất cả vong hồn những người đã chết vì loạn lạc, chiến tranh, chết không có con cái thờ tự, chết vì nghèo đói; danh từ Phật gọi chung là ngạ quỷ. Cũng vào thời kỳ này gọi là Thịnh Đường, đạo Phật trở nên cực kỳ hưng thịnh, cho nên cách thiết lễ Vu Lan cũng đổi thay.
Đến rằm tháng Bảy, trong mọi gia cư và tại chùa, dân gian xây đàn, làm chay để cúng vong hồn; đồng thời ngoài cộng đồng, nơi các chùa lớn lại có tục lệ tổ chức chưng bày các bảo vật thờ tự đức Phật, như là di tích của đức Phật ví dụ, Xá lợi là di vật nhục thân của đức Phật đựng trong bình đá, bình ngọc đem từ Ấn Độ sang, hoặc là các bổn kinh chép bằng chữ Sanskrit hay Pali, khắc trên đá, đẽo trên gỗ, chép trên lá cót, lá gồi… cho dân chúng được phép chiêm ngưỡng. Nhà chùa lại khuyến khích các gia đình giàu có tham gia cuộc triển lãm bằng cách chưng bày các của riêng trân châu dị bảo cho khách thập phương từ xa đến thưởng ngoạn.
Khách đi xem trong tỉnh, ngoài tỉnh đến dựng lều ở trên đất chùa, và tổ chức các buổi ca vũ, hát tuồng, thi đua tranh tài võ nghệ, thi đua khoe tài nấu nướng các món chay làm lễ cúng Phật và thết đãi người đồng đạo. Từ đó mà có ý nghĩa thiêng liêng “Đại hội Vu Lan”, xá tội cho những linh hồn chết bị nghiệp đày đọa và cởi mở cho những linh hồn sống vui tươi, hành thiện. Đại sư Amoghavajra hiểu rõ là đạo Phật từ Ấn Độ vào Trung Hoa phải vượt qua cái điều chướng ngại căn bản là truyền thống luân lý Trung Hoa từ lúc mới khai sáng, dựa trên nền tảng hiếu đạo: Nguyên thủy, đạo Phật dạy xuất thế, từ chối gia đình để hướng tới giải thoát nghiệp. Từ chối vợ con tức là chối bỏ cái sứ mệnh nối dõi giòng họ để cúng giỗ; từ chối gia đình tức là bỏ cha mẹ không nuôi dưỡng. Người Trung Hoa khó lòng mà chấp nhận giáo lý nhà Phật chủ trương như vậy.
Để giải quyết chướng ngại đó, đạo Phật phải tập quán vào xã hội vĩ đại của Trung Hoa bằng ba phương cách. Thứ nhất là dịch thuật và diễn giải các bộ kinh Phật liên hệ đến chữ hiếu, đã có sẵn rất nhiều trong kinh điển Sanskrit và Pali vừa mới du nhập vào nước Tàu, để chứng minh là giáo lý Phật cũng nặng chữ hiếu không kém truyền thống Trung Hoa. Phương cách thứ hai là thiết lập một số kinh điển mới do các đại sư Ấn Độ và Trung Hoa rút ý trong kinh điển nhà Phật viết ra, chú trọng vào hiếu để. Phương cách thứ ba còn siêu việt hơn nữa. Chữ hiếu cổ truyền của người Trung Hoa chỉ giới hạn trong phạm vi gia đình: cha mẹ ông bà. Chữ hiếu của nhà Phật bao gồm người sống và người chết: những người đã chết trong bao nhiêu đời trước tổ tiên , rộng hơn nữa là những người đã chết cô quả không người cúng tế, và chính ngay những người đang sống vì trả nợ kiếp trước. Chữ hiếu theo quan niệm nhà Phật bỏ cái quan niệm cá nhân và gia đình để bao trùm hoàn vũ, lại còn đi vào chiều sâu thời gian. Ý niệm hiếu để của đạo Phật vượt lên bậc siêu đẳng, đáp ứng với nhu cầu hướng thiện và hướng linh của con người.
Ta thử lược qua kinh điển để dẫn chứng cụ thể những điều nói trên. Đời Hậu Hán, An Thế Cao An Shih-Kao dịch trước tiên hai bộ kinh liên hệ đến chữ hiếu: Kinh Thi-Ca-Việt Lục Phương Lễ, và kinh Phụ Mẫu Ân Nan Báo. Tiếp theo đời Ngũ đại, đại sư Tân Pháp Tư dịch bộ kinh Phật Thuyết Thiện Sinh Tử. Hai bộ kinh căn bản của trường Phật giáo Nguyên thủy là Trường A Hàm và Trung A Hàm, được dịch ra Hán văn từ thế kỷ Bốn và Năm cũng nhắc lại lời dạy của đức Phật về chữ hiếu.
Thế nhưng muốn đề cập đến vấn đề hiếu để trong đạo Phật, ta phải đọc đến hai bộ kinh căn bản là bộ Kinh “Bồ Tát Thiện Tử” nói đến một người con có hiếu tên là Thiện Tử và bộ Kinh “Vu Lan Bồn” do đại sư Pháp Phong dịch dưới đời Tây Tấn, nói đến sự tích Mục Kiện Liên, một vị đại đệ tử của đức Phật.
Kinh Bồ Tát Thiện Tử do một nhà sư vô danh dịch ra Hán văn dưới đời Tây Tấn, được chùa Trung Hoa xem là bổn kinh, nhưng thật sự là trích ra trong Truyện Tiền Thân của đức Phật Jataka . Thiện Tử Sanskrit là Syama; Pali, Sama là một vị bồ tát đã tình nguyện đầu thai làm con một cặp vợ chồng đui mù đã phát nguyện từ bỏ đời sống phù du nơi thành thị, đến ở một hang núi để tu tập. Đứa con lớn lên rất có hiếu với cha mẹ và đem cha mẹ vào ở trong một hang núi để thực hiện điều nguyện ước. Một hôm Thiện Tử đội chiếc áo da nai xuống suối lấy nước. Nhà vua đi săn qua đó, tưởng lầm là thú, bắn mũi tên độc vào chàng trai. Thiện Tử nằm chờ chết, không oán hận nhà vua, cho là mình chết vì nghiệp, nhưng tiếc thương vì còn cha mẹ già không ai nuôi dưỡng. Ông và bà cụ già mò đến xác Thiện Tử. Người cha ôm đầu con truyền hơi thở, người mẹ đặt miệng vào vết thương cố hút chất độc ra. Trong cơn đau đớn họ nguyện cầu đức Phật cứu độ. Tức thì Phật Quán Thế Âm hiện ra, chữa lành vết thương cho Thiện Tử, và đồng thời cứu cha mẹ Thiện Tử khỏi mù lòa. Cuốn kinh kết luận bằng lời dạy của đức Phật là hiếu để sẽ thắng mọi điều khổ ải. Câu chuyện này rất phổ thông trong dân gian Trung Hoa. Chuyện Thiện Tử còn được nhắc lại trong hai bổn kinh là “Lục Độ Thập Kinh” và “Pháp Uyển Châu Lâm”. Thầy Huyền Trang Đường Tam Tạng cũng có thuật lại chuyện Thiện Tử trong sách “Đại Đường Tây Vực Ký”.
Sang đời Tống, chuyện Thiện Tử được hoàn toàn Trung Hoa hóa, trở thành một trong hai mươi bốn mô hình của Nhị Thập Tứ Hiếu và Thiện Tử được đổi tên là Yến Tử, chi tiết câu chuyện được đặt vào một cảnh vực Trung Hoa hơn.
Chuyện hiếu của Mục Liên tả trong kinh Vu Lan Bồn lại càng phổ thông hơn trong các nước Á Đông theo Phật giáo Đại Thừa. Kinh Vu-lan-bồn do đại sư Ấn độ Pháp Phong Dharmaraksha, Đàm-ma-la-sát, phiên âm chữ Nho dịch vào cuối đời Tây Tấn. Bổn kinh này liên hệ trực tiếp với lễ Vu Lan, nội dung của bổn kinh lại còn trình bày rõ ràng hơn quan niệm của đạo Phật về chữ hiếu, ta đã nói ở đoạn trên.
Ý niệm xuất thế của đạo Phật, bỏ nhà đi tu, không trọn hiếu đạo với cha mẹ, được Kinh Vu Lan giải tỏa và người Trung Hoa cùng với các dân tộc khác ở Á Đông đã nồng nhiệt chấp nhận phương cách giải thích như vậy. Ở Trung Hoa ngày đó, sự tích Mục Kiền Liên được phổ cập quanh năm trong nhân gian, không những trong chùa vào ngày lễ lạc, mà ở khắp mọi nơi, trong nhà thành câu hát ru em, ngoài chợ thành bài vè cho người hát xẩm, tạo nên một loại văn chương gọi là biền văn. Đầu thế kỷ Hai mươi, khi khám phá ra c